Luca 19:41-44
41Khi
ấy, Đức Giê-su đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, thì khóc thương 42 mà
nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt
ngươi không thấy được. 43 Thật vậy, sẽ tới những ngày quân
thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. 44 Chúng
sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên
hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng
thăm.”
(Trích Phúc âm Luca, bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng
Vụ từ https://ktcgkpv.org/readings/mass-reading)
Gợi ý cầu
nguyện
1.
Bài đọc hôm nay ngắn, nhưng chuyên chở
những ý tưởng rất đẹp và quan trọng có thể giúp tôi suy niệm và cầu nguyện
trong giây phút này. Thứ nhất, hình ảnh
Chúa Giêsu khóc thương thành Giê-ru-sa-lem.
Đây không phải là lần đầu tiên các tác giả Kinh Thánh ghi nhận Chúa Giêsu
đầy xúc cảm và khóc. Điều này cho tôi
thấy, Chúa Giêsu cũng rất người. Là
người ai cũng khóc, sinh ra đã khóc. Khi
còn là con nít, người ta khóc; khi đã lớn khôn, người ta cũng khóc, và khi về
già, người ta cũng vẫn không hết khóc.
Người ta khóc vì vui, người ta cũng khóc vì buồn. Người ta khóc khi yêu thương ngập tràn, người
ta cũng khóc khi tình yêu tan vỡ. Người
ta khóc khi yếu đuối, người ta cũng khóc khi phải sống mạnh mẽ quá lâu. Vua hề Charles Chaplin (Sạc-lô), cả cuộc đời luôn
muốn làm cho cả thế giới cười nhiều bớt khóc, cũng thường khóc một mình. Có lần ông tâm sự, “Tôi luôn thích đi dưới
trời mưa, để không ai thấy tôi đang khóc –
I always like walking in
the rain, so no one can see me crying.” Khóc là một việc làm rất người, vì khóc là ngôn ngữ của cảm xúc, của con
tim. Có ai sống mà lại không có trái
tim! Tuy nhiên, khóc lại là điều rất khó
hiểu, nhiều khi đến mức huyền bí. Chính
vì thế, khóc thường bị diễn dịch sai và tiêu cực, như: khóc là đặc trưng của
phái nữ. Để rồi, từ văn hóa này đến văn
hóa khác, người ta dạy cho nhau rằng: Con trai không được khóc, chỉ con gái mới
được mè nheo! Phái nam cũng có trái tim
và đầy cảm xúc, ấy vậy mà người ta cấm con trai không được khóc! Hoặc, khóc bị hiểu như là biểu hiện của sự
yếu đuối. Chính vì thế, nhiều cha mẹ cứ phải
nuốt nước mắt vào trong, nhiều người vợ phải khóc thầm trong đêm, sợ thế giới,
gia đình và con cái nghĩ mình yếu nhược.
Thế nhưng, cha mẹ, vợ chồng, ai mà không có trái tim, vậy mà họ không
được khóc khi cần phải khóc! Nhạc sĩ
Minh Nhiên còn diễn tả sự gồng mình của đàn ông ra vẻ mạnh mẽ, không dám cho ai
thấy mình khóc, trong bài Tình Yêu Không
Có Lỗi, “Nước mắt đàn ông không rơi từng giọt, nước mắt đàn ông chôn sâu
trong lòng.” Khóc là một sự diễn tả tự
nhiên của một con người có trái tim.
Khóc là một cách diễn tả nỗi lòng sâu kín nhất, khi mà mọi ngôn ngữ đều như
què quặt. Khóc là một phương thức chữa
lành những khổ đau của tâm hồn, đồng thời là sức đẩy giúp người ta mạnh mẽ trở
lại. Washington Irving (1783-1859), một
nhà văn, nhà tiểu luận và sử gia nổi tiếng của Mỹ thế kỷ 19, nói “Có một sự
thiêng liêng trong những giọt nước mắt.
Chúng không phải là biểu hiện của yếu đuối, mà là sức mạnh. Chúng diễn tả hùng hồn hơn cả hàng vạn ngôn
ngữ – There is a sacredness in
tears. They are not the mark of
weakness, but of power. They speak more
eloquently than ten thousand toungues.”
Bài đọc hôm nay nói, Chúa Giêsu khóc thương thành Giê-ru-sa-lem vì họ đã
không nhận ra những ân huệ Chúa ban, không nhận biết những tai họa đang ập tới. Có khi nào tôi cảm thấy Chúa Giêsu cũng khóc vì
tôi? Có khi nào tôi đã khóc với
Chúa? Lần gần đây nhất tôi đã khóc là
khi nào? Với ai? Vì lý do gì?
Tôi cảm thấy như thế nào sau lần khóc ấy? Nếu trong giờ cầu nguyện này tôi cần khóc,
hãy xin ơn nước mắt, dám khóc với Chúa. Keith
McClellan, O.S.B, một tu sĩ Dòng Biển Đức nói: “Cầu nguyện khởi đi từ một trái tim khắc khoải. Hãy lắng nghe những khắc khoải ấy… Khi bạn cảm thấy buồn hoặc hối lỗi, hãy cứ tự nhiên khóc. Bởi
nước mắt là lời nguyện của con tim.”
2.
Điểm thứ hai cũng rất người trong bài đọc
hôm nay, đó là: lòng biết ơn. Biết ơn là
điều mà ai cũng được dạy từ tấm bé, từ những ngày bập bẹ biết nói. Như vậy chứng tỏ văn hóa nào cũng trọng lòng
biết ơn, và coi sự vô ơn là điều đáng ghét.
Nhưng dường như, càng lớn tôi càng sống không biết ơn. Đặc biệt, tôi dạy con cái khi chúng còn nhỏ, mỗi
khi nhận được bất cứ điều gì từ người lớn phải biết nhớ ơn, phải nói cám ơn. Trong khi đó, tôi là người lớn, mỗi khi con
cái làm gì cho mình, lại không biết ơn chúng, không nói được một lời cám ơn với
con; trớ trêu, nhiều khi còn vểnh miệng biện hộ: Việc gì phải cảm ơn, đó là bổn
phận nó phải làm! Biết ơn không chỉ là
phép lịch sự tối thiểu, nhưng còn là dấu chỉ của một nhân cách trưởng thành. Người ngoài cho tôi cái gì, tôi cám ơn ríu
rít, trong khi đó tôi lại rất vô ơn với những người trong nhà như với: vợ,
chồng, ông bà, cha mẹ, con cái. Biết ơn
còn là căn tính của mọi Kitô hữu. Ngày
nào tôi không sống biết ơn, ngày đó tôi không còn là Kitô hữu nữa. Mỗi ngày, tôi nhận được biết bao nhiêu ân
sủng từ Chúa qua xã hội, Giáo hội, gia đình, bạn bè và môi trường, ấy thế mà mỗi
ngày, tôi lại không có được năm mười phút để thành tâm cám ơn Chúa, mỗi tuần, tôi
lại không có được một tiếng để dâng lễ tạ ơn Chúa. Liệu Thiên Chúa có đang khóc vì sự vô ơn của
tôi? Thi sĩ nổi tiếng người Anh, William
Shakespeare (1564-1616), nói: “Gió đông thổi, cứ thổi cơn, nhưng chẳng lạnh
bằng lòng của kẻ phụ ơn – Blow, blow,
thou winter wind. Thou art not so unkind
as man’s ingratitude.” Tôi đọc lại bài đọc trên và quyết tâm sống diễn tả như một người đầy biết
ơn, trong từng ngày sống của tôi. Tôi
kết thúc giờ cầu nguyện hôm nay bằng bài hát, “Khúc Ca Tạ Ơn,” sáng tác của Lm Thiên Ân, với sự trình bày của
Phan Đình Tùng, qua đường dẫn sau: https://www.youtube.com/watch?v=aJa2Uu6Cr3Q
Phạm Đức Hạnh, SJ
0 comments:
Post a Comment